Trả lời:
Khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao động (BLLĐ) đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, quy định người lao động làm việc theo chế độ HĐLĐ xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn khi thuộc các trường hợp: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thoả thuận trong hợp đồng; b) Không được trả công đầy đủ hoặc trả công không đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng; c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng; d) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 03 tháng liền đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
Khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao động (BLLĐ) đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, quy định người lao động làm việc theo chế độ HĐLĐ xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn khi thuộc các trường hợp: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thoả thuận trong hợp đồng; b) Không được trả công đầy đủ hoặc trả công không đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng; c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng; d) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 03 tháng liền đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
BLLĐ có quy định về trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ quy định tại Điều 42; Nghị định số 44/2003/NĐ-CP (ngày 09/05/2003, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về HĐLĐ), có hướng dẫn chi tiết vấn đề này tại Điều 14, theo đó:
Người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương (nếu có) đối với người lao động đã làm việc từ đủ 12 tháng trở lên quy định tại khoản 1 Điều 42 của BLLĐ trong các trường hợp chấm dứt HĐLĐ quy định tại Điều 36 của BLLĐ; Điều 37, các điểm a, c, d và điểm đ khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 41, điểm c khoản 1 Điều 85 của BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung
Người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương (nếu có) đối với người lao động đã làm việc từ đủ 12 tháng trở lên quy định tại khoản 1 Điều 42 của BLLĐ trong các trường hợp chấm dứt HĐLĐ quy định tại Điều 36 của BLLĐ; Điều 37, các điểm a, c, d và điểm đ khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 41, điểm c khoản 1 Điều 85 của BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung
Trường hợp chấm dứt HĐLĐ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 85 và nghỉ hưởng chế độ hưu trí hàng tháng quy định tại Điều 145 của BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung người lao động không được trợ cấp thôi việc.
Trường hợp người lao động chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 41 của BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung là chấm dứt không đúng lý do quy định tại khoản 1 hoặc không báo trước quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 37 của BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung thì không được trợ cấp thôi việc.
Khoản 6 Điều 139 Luật BHXH năm 2006 quy định: Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Luật BHXH không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về cán bộ, công chức.
Do đó, để được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc, ngoài việc báo trước cho người sử dụng lao động biết trước 30 ngày, người lao động phải đáp ứng điều kiện đã làm việc tại doanh nghiệp “từ đủ 12 tháng trở lên” và thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 37 BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung năm 2002. Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp không được coi là thời gian tính trợ cấp thôi việc.
Anh (chị) cần lưu ý, giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc cho người lao động còn căn cứ vào thoả thuận giữa các bên tại HĐLĐ, thoả ước lao động tập thể, quy chế riêng của doanh nghiệp và theo nguyên tắc quyền lợi của người lao động được hưởng không thấp hơn mức do pháp luật quy định.
Do đó, để được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc, ngoài việc báo trước cho người sử dụng lao động biết trước 30 ngày, người lao động phải đáp ứng điều kiện đã làm việc tại doanh nghiệp “từ đủ 12 tháng trở lên” và thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 37 BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung năm 2002. Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp không được coi là thời gian tính trợ cấp thôi việc.
Anh (chị) cần lưu ý, giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc cho người lao động còn căn cứ vào thoả thuận giữa các bên tại HĐLĐ, thoả ước lao động tập thể, quy chế riêng của doanh nghiệp và theo nguyên tắc quyền lợi của người lao động được hưởng không thấp hơn mức do pháp luật quy định.
LS Phạm Ngọc Minh
(Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, E-mail: youmevietnam.com)
(Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, E-mail: youmevietnam.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét